Kiểm tra 9 khoáng chất độc hại nhất trên thế giới

Trong thế giới hiện đại chúng ta đang sống, các khoáng chất quý được sử dụng trong mọi thứ. Ngoài vàng và bạc - hai trong số những thứ được biết đến nhiều nhất - vẫn còn một số loại khác, chẳng hạn như thủy ngân hoặc thạch anh chẳng hạn. Danh sách các yếu tố này là rất lớn và mỗi người có cách làm cho mọi người thích thú.

Nhưng trong số các yếu tố này là các vật liệu độc hại nhất được khoa học biết đến. Chúng có thể đẹp, nhưng đã được chứng minh qua nhiều năm rằng chúng rất nguy hiểm và thậm chí đã bị loại khỏi sản xuất công nghiệp. Kiểm tra với chúng tôi để biết danh sách 9 khoáng sản quý có sức tàn phá cao.

01 - Cinnabar (HgS)

Đây là thủy ngân sunfua, còn được gọi là Cinnabar. Nó là nguồn thủy ngân nguyên tố chính của chúng ta kể từ buổi bình minh của nền văn minh nhân loại và thường được sử dụng làm sắc tố cho gốm sứ và hình xăm, và được sử dụng trong các thiết bị khoa học như nhiệt kế và áp kế, cũng như một số ứng dụng công nghiệp nặng.

Tuy nhiên, khi bị oxy hóa, nguyên tố này tạo ra thủy ngân metyl và thủy ngân dimethyl, hai hợp chất độc hại gây ra thiệt hại không thể khắc phục đối với hệ thần kinh của trẻ em. Nó gây chết người ở nồng độ nhỏ và có thể được hấp thụ qua đường thở, ruột và da. Do đó, gần như tất cả các lĩnh vực đã loại bỏ việc sử dụng hoặc đang trong quá trình bị xóa.

02 - Kim tự tháp (FeS2)

Cả lưu huỳnh và axit sulfuric được sử dụng trong toàn ngành. Lưu huỳnh có thể được tìm thấy trong tất cả mọi thứ, từ các trò chơi và lốp xe cho đến thuốc diệt nấm. Axit sulfuric là một thành phần quan trọng của nhiều sắc tố. Pyrite, một khoáng chất bao gồm sắt và lưu huỳnh, là nguyên tố duy nhất có khả năng thu được chúng.

Điều này dẫn đến những nỗ lực khai thác lớn của Pirita, đến lượt nó, dẫn đến tàn phá môi trường. Ngoài ra, nó tự bốc cháy khi trộn với các lớp than và tiếp xúc với không khí, giải phóng các kim loại có độc tính cao vào khí quyển, chẳng hạn như asen.

Pyrite không còn được khai thác thương mại sau khi người ta phát hiện ra rằng lưu huỳnh có thể dễ dàng được thu thập dưới dạng sản phẩm phụ của khí tự nhiên và chế biến dầu mỏ cho mục đích này. Ngày nay, nó hiếm khi được khai quật và không bị loại bỏ trừ khi nó được sử dụng như một mảnh mẫu.

03 - Fluorit (CaF2)

Đá xanh đẹp này là fluorite. Bao gồm canxi florua, nó được tìm thấy cùng với các quặng khác như sắt, than và đồng. Đá có thể được sử dụng trong đúc và thường được nhìn thấy trong đồ trang sức và ống kính viễn vọng. Khi trộn với axit sulfuric, nó tạo ra hydro florua, một tiền chất hóa học công nghiệp quan trọng.

Tuy nhiên, Fluorite có thể gây nguy hiểm cho những người tiếp xúc trực tiếp với nó. Khoáng chất có chứa flo, có thể được hấp thụ vào phổi nếu nó ở dạng bột. Khi vào cơ thể, nó gây ra bệnh fluor, một căn bệnh đau đớn làm suy yếu xương và khớp, gây tổn thương nghiêm trọng cho bộ xương.

04 - Thạch anh (SiO2)

Từ ngành công nghiệp quang học và điện tử đến mài mòn, Quartz là khoáng chất phổ biến thứ hai trên trái đất và là thứ đầu tiên được nhân loại sử dụng. Giá trị của nó như là một kẻ chủ mưu đã được sử dụng trong khai thác trong nhiều năm. Tinh thể thạch anh là thành phần phổ biến trong radio và đồng hồ điện tử.

Tuy nhiên, nó không thể được nghiền và hít trừ khi bạn muốn phát triển bệnh bụi phổi silic, một bệnh về đường hô hấp đặc trưng bởi phổi bị sưng và các hạch bạch huyết gây khó thở. Điều này thường chỉ xảy ra sau khoảng 20 năm hoặc hơn phơi nhiễm, nhưng những người bị ảnh hưởng có thể đã trải qua các triệu chứng trong vòng chưa đầy 5 năm.

Thạch anh cũng có thể gây ung thư phổi vì căn bệnh này có liên quan chặt chẽ với một số ngành công nghiệp như khai thác, mài mòn và thậm chí chế tạo thủy tinh.

05 - Galena (PbS)

Người La Mã đã sử dụng Galena cho mọi thứ, từ ống cho đến thuốc nhuộm và thực phẩm. Nhưng trong đó có chì, thường được sử dụng trong pin, đạn và áo giáp công nghệ cao, như chăn tia X và vỏ lò phản ứng hạt nhân, cũng như phụ gia sơn và xăng và một giải pháp lưu trữ hóa chất ăn mòn.

Nó không tệ như thủy ngân, nó giết chết ngay lập tức, nhưng chì không được cơ thể giải phóng. Nó tích lũy qua nhiều năm, đạt mức độ độc hại rất cao. Cái giá phải trả là rất cao, vì chì là chất gây ung thư và gây dị tật bẩm sinh nghiêm trọng.

06 - Phenacit (BeSiO4)

Phenacite được khai thác như một loại đá quý và chứa hàm lượng beryllium cao, là tiền thân của nhiều vật liệu gốm, cho đến khi mọi người phát hiện ra rằng hít phải bột của khoáng chất này gây ra bệnh beryllium. Nó giống như bệnh bụi phổi silic, nhưng nghiêm trọng hơn nhiều và cũng mãn tính.

Không có cách chữa cho căn bệnh này. Một khi bạn có nó, điều này là cho cuộc sống. Điều gì xảy ra là phổi trở nên rất nhạy cảm với berili, gây ra phản ứng dị ứng ở các nốt nhỏ gọi là u hạt. Chúng làm cho việc thở trở nên vô cùng khó khăn và gây ra các bệnh như bệnh lao.

07 - Ca3K2Na2 erionit [Al10Si26O72] .30H2O (Z = 1)

Erionite là một thành viên của họ zeolite, một loại silicat khoáng sợi thường được sử dụng làm sàng phân tử do khả năng lọc chọn lọc các phân tử cụ thể từ chất lỏng và khí quyển.

Nó được tìm thấy trong tro núi lửa và được sử dụng làm chất xúc tác để pha tạp kim loại quý. Nó trông rất giống khoáng chất amiăng và gây thiệt hại cho con người, chẳng hạn như ung thư trung biểu mô, một căn bệnh cuối cùng dẫn đến bệnh ác tính có nguy cơ cao. Việc khai thác vật liệu này đã chấm dứt vào cuối những năm 1980.

08 - Hydroxyapatite (Ca 5 (PO 4) 3 (OH))

Photpho từ phân bón trong vườn của bạn và flo từ nước máy rất có thể đến từ một loại đá như thế này, được gọi là Apatita. Các khoáng chất phốt phát này có nhiều loại, mỗi loại chứa hàm lượng ion OH, F, Cl hoặc hydroxyapatite cao, ngăn ngừa sâu răng.

Có hàm răng chắc khỏe, chắc chắn là một điều tốt, nhưng tiếp xúc với hydroxyapatite, cho dù bằng cách khai thác hoặc chế biến, sẽ gửi các khoáng chất này vào van tim của bạn, làm chúng hóa đá.

09 - Crocidolit (Na2 (Fe2 +, Mg) 3 Fe3 + 2 Si8 O22 (OH) 2)

Nói xin chào với những thứ nguy hiểm nhất trên thế giới. Crocidolite, còn được gọi là amiăng xanh, đã được sử dụng rộng rãi cho nhiều ứng dụng thương mại và công nghiệp, nhờ vào sức mạnh và khả năng chống cháy trong gạch và vật liệu sàn, cũng như cách nhiệt.

Năm 1964, Tiến sĩ Christopher Wagner đã liên kết giữa amiăng và ung thư trung biểu mô, phát hiện ra rằng khoáng chất phát triển căn bệnh này rất nghiêm trọng. Thị trường cho các sản phẩm này đã biến mất và cấu trúc amiăng không còn được sản xuất.

* Nguyên văn ngày 29/9/2014.